Tọa đàm “xử lý nước thải sinh hoạt đô thị” – thực trạng và giải pháp giúp môi trường xanh – sạch

98

 

DNTH: Ngày 12/4, tại toà soạn Tạp chí Môi trường và Cuộc sống đã diễn ra tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “xử lý nước thải sinh hoạt đô thị” nhằm trao đổi, ghi nhận ý kiến của Đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý về thực trạng công tác quản lý và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị và những tồn tại, khó khăn và thách thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể theo hướng thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý nước thải sinh hoạt đô thị tốt hơn, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường.

 

Chủ trì buổi toạ đàm có nhà báo Khánh Toàn – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống. Khách mời tham dự buổi tọa đàm gồm có: Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân – Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam; ông Nguyễn Thế Đồng – Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường; ông Nguyễn Văn Hoàn – Phó Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh; ông Lương Ngọc Khánh – Trưởng Phòng Quản lý thoát nước, Cục Hạ tầng kỹ thuật – Bộ Xây dựng; ông Nguyễn Thành Lam – Vụ Quản lý chất thải, Tổng Cục môi trường; ông Lê Xuân Đoàn – chuyên viên phòng Phát triển đô thị và hạ tầng kỹ thuật, Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh.

Quang cảnh buổi tọa đàm.

Phát biểu khai mạc, nhà báo Khánh Toàn – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chia sẻ, các đô thị tại Việt Nam hiện nay đang phát triển rất nhanh khiến cho việc thoát nước, xử lý nước thải đô thị ngày càng nan giải, vấn đề đầu tư vào hệ thống kỹ thuật hạ tầng đô thị nói chung và hệ thống cấp thoát nước đô thị nói riêng còn nhiều hạn chế. Nhiều tỉnh, thành phố quy hoạch hạ tầng không đồng bộ, không theo kịp sự phát triển của đô thị. Cùng với đó là việc thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật xử lý nước thải, thiếu cơ chế kêu gọi để các nhà đầu tư rót vốn vào hệ thống xử lý nước thải, nhiều hệ thống xử lý công nghệ chưa phù hợp, đã dẫn tới tình trạng nước thải sinh hoạt đô thị không được xử lý vẫn ngang nhiên xả ra môi trường, đe dọa đến môi trường sinh thái và trở thành thách thức lớn cho các đô thị ở Việt Nam.

Nhà báo Khánh Toàn – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chủ trì tọa đàm.

Theo báo cáo, hiện tại các tỉnh thành phố mới chỉ xử lý được 15 – 30 % lượng nước thải sinh hoạt đô thị trước khi thải ra môi trường. Số lượng nước còn lại đều được xả thẳng vào hệ thống thoát nước chung rồi chảy ra ao, hồ, sông ngòi làm ô nhiễm nguồn nước.

Những dòng sông, ao hồ, sông ngòi hằng ngày đang oằn mình tiếp nhận hàng triệu m3 nước thải đô thị chưa qua xử lý. Màu đen kịt, bốc mùi hôi thối là những gì mà chúng rất dễ nhận thấy mỗi khi đi qua các con sông, kênh rạch, ao hồ tại các đô thị lớn.

Nước thải sinh hoạt đô thị không được xử lý đạt chuẩn trước khi xả ra môi trường không những gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường nước và cũng là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, giảm chất lượng cuộc sống, đe dọa trực tiếp đến tính mạng con người.

Nhằm trao đổi, ghi nhận ý kiến của Đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý về thực trạng công tác quản lý, xử lý nước thải sinh hoạt đô thị và những tồn tại, khó khăn, thách thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể theo hướng thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý nước thải sinh hoạt đô thị tốt hơn, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời gian tới.

Buổi tọa đàm trực tuyến ngày hôm nay với chủ đề: “xử lý nước thải sinh hoạt đô thị”. Ban Biên tập rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của quý độc giả và gửi các câu hỏi để giao lưu với Đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà quản lý về công tác xử lý nước thải sinh hoạt đô thị hiện nay tại địa phương mình.

Chia sẻ của các đại biểu tham gia toạ đàm

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân – Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Chủ tịch HĐQT công ty CP Halcom Việt Nam cho biết: chúng ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về xử lý nước thải ở các đô thị trên cả nước, khoảng 80% đến 90% đang bị xả thẳng ra môi trường cho thấy năng lực xử lý nước thải đang rất thấp, có thể thấy các chính sách, chế tài, cơ chế, năng lực quản lý,… đang có vấn đề. Ngoài ra, nước thải được xử lý ở các nước thu nhập trung bình năng lực xử lý đang rất thấp so với các nước phát triển.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân… phát biểu tại toạ đàm.

Trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Thành Lam – chuyên viên chính Vụ quản lý chất thải, Tổng Cục Môi trường, cho biết: Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) và Bộ Xây dựng đã nỗ lực đầu tư xử lý nước thải sinh hoạt, hiện có 71 nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Nước thải khu công nghiệp được các chủ đầu tư xử lý. Đầu tư cho hệ thống thu gom nước thải khá lớn, giá xử lý nước thải khá thấp, chỉ 10%, nên chưa thu hút khối đầu tư tư nhân và nước ngoài. Bộ TN&MT và Bộ Xây dựng đã phối hợp với nhau đã đưa ra văn bản hướng dẫn, yêu cầu. Theo đó, đã có 57.63 tỉnh thành gửi số liệu về các bộ hằng năm.

Ngoài ra, lượng nước thải xả ra môi trường còn khá lớn ảnh hưởng đến môi trường, thủy sinh. Việc thu gom và xử lý đi liền với nhau. Luật Bảo vệ môi trường đảm bảo công nghệ phù hợp, công suất phù hợp với lượng nước thải phát sinh.

Ông Nguyễn Thành Lam – chuyên viên chính Vụ quản lý chất thải, Tổng Cục Môi trường.

Theo ông Lương Ngọc Khánh – Trưởng Phòng Quản lý thoát nước, Cục Hạ tầng kỹ thuật – Bộ Xây dựng: quá trình đô thị hóa không đi kèm với phát triển hạ tầng nên việc thu gom nước thải và xử lý nước thải còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay ở Việt Nam, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh, đòi hỏi vấn đề thu gom xử lý mang tính lâu dài. Tại các đô thị ở Việt Nam đa số là hệ thống xử lý nước thải chung mà hiện nay theo quy định, cần hệ thống riêng, tách 2 hệ thống song hành.

Ông Lương Ngọc Khánh – Trưởng Phòng Quản lý thoát nước, Cục Hạ tầng kỹ thuật – Bộ Xây dựng.

Bên cạnh đó, việc hình thành các khu công nghiệp diễn ra nhanh chóng dẫn đến mật độ xây dựng tăng, mà đường ống được làm trước đó, không đồng bộ, nhỏ, chưa phù hợp với sự phát triển đô thị, dẫn đến nhu cầu không đủ, do vậy việc nâng cấp mở rộng xây dựng gặp nhiều khó khăn.

Nguyên nhân là do không có kinh phí, chỉ có từ nguồn ngân sách Nhà nước, ODA, khó khăn trong quá trình cấp vốn. Hơn nữa, việc quản lý cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, các cơ quan quản lý cần phải có sự đồng bộ. Hiện nay, 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi thành cống nước thải nhưng cũng làm giảm năng lực thoát nước. Sự phát triển của các đô thị và sự phát triển của hệ thống thoát nước có khoảng cách lớn.

Ông Nguyễn Thế Đồng – Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường.

Trao đổi về nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt đô thị hiện nay tại Việt Nam, ông Nguyễn Thế Đồng – Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho biết: nước sinh hoạt của người dân hiện nay được lấy từ mạch nước ngầm, mà hiện nay nguồn nước này đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Theo tôi, có 4 nguyên nhân lớn:

Thứ nhất, do cơ sở hạ tầng về xử lý nước thải đang gặp nhiều khó khăn bất cập, không theo kịp quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá.

Thứ hai, là do ý thức trách nhiệm của bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, các tổ chức trên địa bàn đô thị, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.

Thứ ba, nguyên nhân gián tiếp là do quy hoạch về cấp thoát nước còn nhiều bất cập nên gặp nhiều thách thức, khó khăn cho các doanh nghiệp.

Thứ 4 là thiếu cơ chế thu hút, khuyến nghị đầu tư, thị trường chưa được khai thác, các điều kiện để nhà đầu tư triển khai kinh doanh có hiệu quả.

Ông Nguyễn Văn Hoàn – Phó Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh.

Theo ông Nguyễn Văn Hoàn – Phó Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh: Bắc Ninh hiện là 1 trong 3 tỉnh có số lượng khu công nghiệp lớn của khu vực phía Bắc. Tỉnh đang phấn đấu đến năm 2030 xây dựng thành phố có nền công nghiệp hiện đại, công nghệ cao; một trong những trung tâm thương mại – dịch vụ, giáo dục, đào tạo nhân lực, chăm sóc sức khỏe, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ, đáp ứng yêu cầu của thành phố trực thuộc Trung ương. Qua đó, phấn đấu nâng tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh năm 2022 đạt khoảng 43%.

Do đó, thu gom nước thải và xử lý nước thải trên địa bàn tỉnh đang được thực hiện, Bắc Ninh có 2 thành phố, tỉnh quan tâm đến vấn đề xử lý môi trường, có đề án xử lý môi trường toàn tỉnh nói chung và xử lý nước thải nói riêng, 2 thành phố trực thuộc tỉnh có 2 nhà máy xử lý nước thải, với công suát 1.000 m3 ngày/đêm. Nhà máy xử lý nước thải Từ Sơn đã xử lý 70% lượng nước thải của thành phố Từ Sơn.

Những tồn tại và biện pháp tháo gỡ

Nhiều cơ chế, chính sách, quy định và hướng dẫn quản lý, xử lý nước thải sinh hoạt đô thị đã được hoàn thiện và ban hành như: khoản 1 Điều 100 Luật Bảo vệ môi trường quy định đô thị, khu dân cư tập trung phải có hệ thống thu gom riêng nước mưa và nước thải; khoản 2 Điều 147 của Luật cũng quy định chi cho các dự án xây dựng, cải tạo công trình xử lý chất thải là một nội dung của chi đầu tư phát triển bảo vệ môi trường; Thông tư số 15/2021/TT-BXD hướng dẫn về công trình hạ tầng kỹ thuật thu gom, thoát nước thải đô thị, khu dân cư tập trung; Nghị định số 40/2019/NĐ-CP, Nghị định 53/2020/NĐ-CP ngày 05/5/2020 về quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải,…..

Mặc dù hệ thống chính sách điều chỉnh việc xử lý nước thải sinh hoạt tại đô thị khá đầy đủ. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và một số bất cập khác, tỷ lệ nước thải sinh hoạt tại đô thị được xử ở nước ta hiện nay chỉ đạt khoảng 13%.

Câu hỏi dành cho đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân: việc thực hiện pháp luật liên quan đến quản lý nước thải sinh hoạt hiện nay đang có vướng mắc giữa quy định chặt chẽ và khả năng đáp ứng thực tế như quy hoạch đất bố trí nơi xây dựng nhà máy xử lý… vậy ông đánh giá vấn đề này như thế nào?

Chính sách đã bám vào các quy định của Đảng, từ năm 2013 hội nghị 7 khóa XII, Đảng đã đưa ra Nghị quyết 24, Nghị quyết về bảo vệ môi trường, tầm nhìn xa của Đảng, trong đó có các chỉ tiêu cụ thể về xử lý nước thải, Quốc hội có 2 Nghị quyết quan trọng 16, 32 kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đều đề cập đến vấn đề môi trường. Ngoài ra, các bộ, ban, ngành đều có những chính sách quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Mới nhất, Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực từ 1/1/2022, tại Điều 6 có quy định rõ các chỉ tiêu không được xả thải ra môi trường.

Có thể thấy tầm nhìn của các chính sách đã có. Tuy nhiên, việc tập trung chuyển đổi cơ cấu thay đổi chậm hơn so với thực tế, vấn đề môi trường theo vẫn theo xu hướng hoạt động công ích, bao cấp. Nguồn lực xử lý nước thải chủ yếu dựa vào nguồn vốn ODA để xây dựng nhà máy xử lý nước thải, nhưng sử lý triệt để xử lý nước thải vấn đề không chỉ là mỗi nhà máy, còn vấn đề thu gom, công nghệ. Ví dụ những đô thị đông dân như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,… có thể xử lý công nghệ bậc cao, mà để đi kèm là phải có hệ thống thu gom tập chung.

Nhưng hiện nay đã có hệ thống xử lý công nghệ cao nhưng đầu vào của nước thải không đồng nhất. Vậy nên hiệu quả của nhà máy xử lý nước thải là không tốt. Vậy nên khi sử dụng nguồn vốn ODA như vậy vẫn chưa có góc nhìn tổng thể, cần có lộ trình để giải quyết vấn đề nước thải, và từng vùng miền như thế nào?

Nhìn chung, chúng ta cần chuyển đổi không sử dụng theo hướng hoạt động công ích, kêu gọi tư nhân đầu tư, theo hướng kinh tế thị trường, cổ phần hóa công ty cấp nước, xử lý nước thải chuyển đổi. Hiện nay, có thể thấy chính sách đã có, bắt tay vào thực hiện cần cụ thể hơn, tiếp cận theo hướng kinh tế thị trường.

Ông Lương Ngọc Khánh: Một trong những nguyên nhân dẫn đến công tác xử lý nước thải đô thị gặp khó khăn đó là tiến độ thực hiện các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải còn kéo dài và số dự án cần thực hiện vẫn chưa đáp ứng được Kế hoạch. Ý kiến của ông như thế nào về vấn đề này?

Vấn đề không chỉ là kéo dài mà nhiều dự án kéo dài từ lúc chuẩn bị đến quá trình thi công, hiện nay cả nước đang có 21 dự án và quy hoạch là cơ sở tiền đề cho các địa phương lập dự án. Một số địa phương đã chuyển đổi hệ thống thoát nước đô thị nhưng một số địa phương nhiều năm qua còn chắp vá. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị dự án đầu tư đòi hỏi nhiều kinh phí, mà ngân sách hạn hẹp thì việc thu hút nguồn vốn rất khó khăn.

Việc triển khai đấu nối nguồn thoát nước chậm, khó khăn trong giải phóng mặt bằng. Các địa phương không có kinh phí, tỉ lệ đấu nối thoát nước từ các hộ dân ra nhà máy chỉ đáp ứng được 50%. Các nhà máy xây dựng xong cần đấu thầu, các địa phương cần đẩy nhanh quá trình ban hành giá dịch vụ thoát nước. các giải pháp đưa ra như phát triển đồng bộ, các địa phương cần lộ trình, giai đoạn cụ thể, phát triển mạng lưới thoát nước và quản lý được mạng lưới đó, thu gom tối đa lượng nước thải phát sinh. Phát huy tối đa hiệu qủa xử lý nước của các nhà máy.

Trao đổi về các hệ thống và phương pháp xử lý nước thải sinh hoạt hiện nay có đáp ứng được nhu cầu phát triển bền vững của đất nước, ông Nguyễn Thế Đồng cho biết: với tình trạng hệ thống hạ tầng xử lý như hiện nay thì sẽ còn xa mới đáp ứng được nhu cầu. Đây cũng là vấn đề mang tính khách quan, để đảm bao được hạ tầng thì chúng ta cần sự đầu tư vô cùng lớn, theo tính toán sơ bộ để xử lý tối thiểu cần 20 tỷ USD. Đây là số kinh phí lớn không dễ gì đáp ứng được. Vấn đề đặt ra là cần giải pháp khắc phục. Cần rà soát lại từ bước cơ chế chính sách, nguồn nước đến công nghệ.

Thực tế thiếu kinh phí nhưng nếu có cơ chế chính sách tốt sẽ quy đổi được sự nâng cấp cơ sở hạ tầng. Về công nghệ, từ trước đến nay chúng ta vay vốn ODA nên chấp nhận công nghệ nước ngoài, nếu tương lai chúng ta chủ động được nguồn tài chính thì tôi tin rằng chúng ta có nguồn lực về công nghệ trong nước.

Câu hỏi dành cho đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân: hiện nay, các đô thị lớn của nước ta như Hà Nội có nhiều nhà máy xử lý nước thải nhưng chỉ với công suất nhỏ, đáp ứng xử lý được khoảng 25 đến 30%. Với quy mô dân số tăng nhanh trong quá trình đô thị hóa, các chuyên gia cho rằng nhu cầu về xử lý nước thải sinh hoạt đô thị theo quy hoạch tổng thể thoát nước cũng tăng lên. Tuy cơ sở hạ tầng đối với các công trình xử lý nước thải đô thị tại nước ta được xây dựng kiên cố, nhưng với lưu lượng nguồn nước thải quá lớn khiến hệ thống xử lý nước cấp và khả năng xử lý nước thải ô nhiễm kém chất lượng. Hiện mới xử lý được 15% lượng nước thải đô thị mà chỉ tiêu thì chúng ta cần phải xử lý là 70% đến 2030. Vậy ông có đánh giá như thế nào về khả năng đáp ứng việc xử lý nước thải của các công trình xử lý này?

Hiện nay, công suất xử lý nước thải theo lý thuyết lượng người dùng nhân lên. Tuy nhiên, nơi nào có hệ thống thu gom riêng, nước thải sinh hoạt, nước mưa, nước mặt. Đối với thành phố Đà Nẵng, không đảm bảo tách riêng với công suất như vậy thì không đủ.

Ông Nguyễn Văn Hoàn: với Bắc Ninh là tỉnh đang trong quá trình thực hiện việc thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị hiện nay, tỉnh Bắc Ninh thấy có những thuận lợi, khó khăn và vướng mắc gì?

Với tỉnh Bắc Ninh xác định quy mô xử lý nhà máy xử lý nước thải, nên tỉnh xác định vị trí quy hoạch, khu đất dành riêng cho xử lý nước thải, có mục tiêu ưu tiên đầu tư cho việc xử lý nước thải. Từ 2015, khu nhà ở đã có mạng lưới xử lý nước thải riêng, có nhà máy về sau sẽ đấu nối tiếp vào. Khó khăn, kinh phí cho đầu tư nhà máy thu gom, xử lý nước thải lớn, kinh phí cho xây dựng nhà máy có thể lên đến 180 tỷ. Xã hội hóa sẽ khó khăn nên thời gian thu hồi vốn của nhà đầu tư sẽ lâu. Bắc Ninh sử dụng vốn đầu tư công. Tốc độ đô thị hóa nhanh, cơ sở hạ tầng, hệ thống này sẽ phát sinh, chi phí lớn, nếu không có nhà dân chi phí sẽ đội lên như độn vỉa hè. Khó khăn nữa là Bắc Ninh là hệ thống rửa riêng, khi mưa hệ thống xử lý nước thải sẽ hòa chung với hồ điều hòa, điều này làm cho các hồ điều hòa bị ô nhiễm.

Ông Nguyên Thế Đồng: các cơ chế chính sách, môi trường để các cấp, các ngành và toàn xã hội triển khai thực hiện dù được ban hành nhưng thực thi còn có chỗ vướng mắc. Thưa ông, ông có đề xuất giải pháp gì để các bộ, ngành, địa phương để có thể hoàn thành các chỉ tiêu trong thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt đô thị?

Hiện nay, về cơ chế chính sách đã có hệ thống tương đối đầy đủ, có các Luật như Luật quy hoạch, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ Môi trường. Luật đã có các văn bản đầy đủ, tuy nhiên thực tế đang diễn ra chậm ở các địa phương. Về các giải pháp, cần nhận thức được vấn đề nước thải sinh hoạt là vấn đề hết sức lớn, tồn tại khá lâu. Mà Việt Nam có xuất phát điểm thấp, nguồn lực đáp ứng còn chưa đủ nên chúng ta cần lộ có trình cụ thể. Nguồn lực hạn chế thì giải pháp cần có sự kết hợp giữa ngắn hạn và dài hạn, về cơ chế chính sách và đầu tư.

Ví dụ tất cả hoạt động có thể giảm phát thải nước thải chúng ta có thể thực hiện mà không cần đầu tư tốn kém. Chúng ta có thể kêu gọi người dân hạn chế phát thải nước thải, để góp phần giảm lượng nước thải ra môi trường. Thứ hai là hạn chế ô nhiễm nguồn nước, không xả chất thải rắn, khí thải ô nhiễm. Cần đồng bộ quản lý nước thải, quản lý môi trường, chất thải rắn và các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân. Cuối cùng mới đến giải pháp về đường ống, rà soát lại các cơ chế chính sách để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Ông Nguyễn Thành Lam: theo ông những tiêu chí nào được ưu tiên để lựa chọn công nghệ phù hợp xử lý nước thải sinh hoạt phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và đặc biệt là phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay?

Công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt không có gì khó, không mới như xử lý nước thải công nghiệp. Quản lý, xử lý thu gom nước thải là nhiệm vụ của các bộ, ngành, ví dụ theo lưu vực sông…

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Bộ TN&MT nêu ra các giải pháp ưu tiên về xử lý nước thải, có giải pháp tái sử dụng nước thải, chuyển giao tái sử dụng. xây dựng lộ trình các khu đô thị lõi. Các quy hoạch từ nay đến 2030 đặt mục tiêu khiêm tốn, cần xử lý đồng bộ theo lưu vực sông, theo chuỗi. Hiện nay có 3 công nghệ xử lý nước thải, cách tiếp cận xử lý nguồn thải thế nào. Việc xử lý nước thải của các địa phương cần các giải pháp, cơ chế đầu tư.

Ông Nguyễn Văn Hoàn: công tác quản lý xử lý nước thải được phân cấp về các địa phương quản lý, vậy theo quan điểm của ông, hiện nay chính quyền các địa phương đã thực sự quan tâm đến vấn đề này?

Để công tác quản lý, xử lý nước thải được phân cấp về các địa phương quản lý, Bắc Ninh sẽ lựa chọn nhà thầu cho thiết kế, thiết bị xây dựng thay vì ưu tiên công nghệ. Tôi đồng tình với các giải pháp của các địa phương, liên ngành cả của người dân chứ không chỉ riêng của nguồn đầu tư công.

Sự phát triển sẽ đi theo những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Nước ta hiện nay, xử lý nước thải sinh hoạt đô thị đang được xem là một trong những vấn đề nóng. Vậy làm sao để phát triển bền vững, giải pháp nào cho vấn đề ô nhiễm trên.

Ông Nguyễn Thành Lam: theo ông, để thực hiện hiệu quả việc xử lý nước thải đô thị sẽ cần những điều kiện gì? Các địa phương có thể dựa vào bộ tiêu chí nào để tự đánh giá chất lượng nguồn nước đã qua xử lý trước khi thải ra môi trường?

Việc xử lý nước thải phải hợp quy chuẩn quốc gia về môi trường, quy chuẩn với nước thải công nghiệp và xử lý nước thải sinh hoạt có quy định riêng. Tiêu chí đánh giá xả thải cần phân vùng xả thải. Các tỉnh cần quy hoạch môi trường, hạn chế khi có khu dân cư, hoặc tiêu chí nước tưới tiêu. Cần cải tạo phục hồi 2 bên bờ sông chứ không chỉ xử lý nước thải, hoàn thiện quy chuẩn xử lý nước thải. Cần đẩy mạnh chính sách, hợp tác công tư. Cần hợp tác quốc tế vào Việt Nam như các dự án được tài trợ từ World Bank.

Việt Nam cần xây dựng nhiều dự án công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đô thị.

Ông Nguyễn Văn Hoàn: có ý kiến cho rằng, để giải quyết tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong bối cảnh hạ tầng chưa đáp ứng được với tình hình thực tế hiện nay, cần thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung; đặc biệt là cơ chế đầu tư theo hướng huy động sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân trong lĩnh vực này. Ý kiến của ông như nào về vấn đề này?

Huy động được vốn đầu tư từ khối tư nhân sẽ rất tốt, nhà đầu tư họ quan tâm đến thời gian thu hồi vốn, Do đó cần có chính sách để tạo điều kiện thuận lợi thu hút nhà đầu tư tư nhân, Bắc Ninh xác định giải quyết thủ tục hành chính nhanh, giải phóng mặt bằng tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Vì vậy, các công trình xử lý nước thải đúng hay nhà máy điện rác đã và đang triển khai trên địa bàn tỉnh đều đáp ứng, theo kịp tiến độ.

Ông Nguyên Thế Đồng: từ lâu, các quốc gia phát triển trên thế giới như Phần Lan, Singapore, Australia, Nhật Bản, Mỹ hay Nam Phi đã rất chú trọng trong việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải, đặc biệt là công tác xử lý nước thải đô thị. Theo ông, Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng những gì từ các quốc gia này trong việc xử lý nước thải đô thị?

Đối với Việt Nam, để đạt được mức độ quản lý môi trường nước đang là sự mơ ước. Chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn, việc học tập kinh nghiệm, hợp tác rất quan trọng để có thể đẩy nhanh xử lý ô nhiễm.

Thứ nhất, Việt Nam có thể xem lại các hệ thống chính sách cơ chế hiện hành, để khơi thông nguồn lực quốc gia, phát triển hợp tác quốc tế.

Thứ 2 là về nguồn lực, chúng ta biết nguồn lực trong nuớc và quốc tế rất quan trọng. Nước ta cần thay đổi chính sách theo hướng xã hội hoá, theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, làm sao để công tác này phải có nguồn thu.

Trong luật Bảo vệ Môi trường cũng đề cập nhưng làm chưa được bao nhiêu, cần học hỏi từ nước ngoài như ví dụ như ở Đức, phí trả nước thải cao hơn phí mua nước. Luật Bảo vệ Môi trường cũng nêu rõ, sắp tới Nhà nước sẽ làm mạnh mẽ hơn trách nhiệm của các nhà sản xuất. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển kinh tế tuần hoàn cũng là một nội dung mới, giúp cải thiện tốt việc bảo vệ môi trờng, giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải, tăng cường tái chế nguồn rác thải.

Cơ chế hoạt động có thể huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường, mỗi người dân đều có ý thức bảo vệ môi trường thì vấn đề ô nhiễm sẽ được cải thiện rất nhiều. Ngoài ra hiện nay Nhà nước còn xây dựng các danh mục xanh, các dự án bảo vệ môi trường sẽ được hưởng ưu đãi của Nhà nước về tín dụng cũng như các chính sách về trái phiếu. Từ chính sách đến thực tế sẽ có khoảng cách lớn nên cần tích cực học hỏi từ nước ngoài.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân: ông có kiến nghị gì để có thể triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nước thải sinh hoạt? Đặc biệt là để khuyến khích khu vực tư nhân tiếp cận, áp dụng các công nghệ tiên tiến phù hợp trong xử lý nước thải sinh hoạt?

Theo tôi, các kiến nghị nghiêng về chính sách, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. Tuy nhiên, học hỏi áp dụng gắn với thực tế ở Việt Nam. Đặc biệt lưu ý nghị quyết đại hội XIII kim chỉ nam trong chiến phát triển kinh tế 10 năm, trong đó chỉ tiêu xử lý nước thải là 70%, theo đó từ 15% – 70% trong vòng 10 năm tới, nguồn lực lớn làm sao để thu hút đầu tư tư nhân, áp dụng kinh tế thị trường học hỏi nước ngoài. Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu cần truyền thông, vận động, cần lộ trình cụ thể.

Hiện nay, các bộ, ban, ngành đã đưa ra lộ trình, Bộ TN&MT thu thập thống kê về ngành nước sắp tới sẽ có bức tranh tổng thể, Bộ Xây dựng sửa đổi luật về cấp thoát nước, từ đó có những bước tiến thiết thực hơn so với nguồn lực.

Ông Lương Ngọc Khánh: cần có những chính sách, giải pháp nào để tỉ lệ nước thải sinh hoạt tại đô thị được xử lý đạt chỉ số cao, thưa ông?

Bộ Xây dựng từ năm 1998 cũng đã tham mưu về định hướng cấp thoát nước, nhiều chính sách được Chính phủ phê duyệt, định hướng đến năm 2025 tỉ lệ thu gom nước thải đạt 70%, tỉ lệ xử lý nước thải đạt 20 – 35% đối với đô thị loại 2, 15 – 20% đối với các đô thị loại 3,4. Từ nay đến năm 2030 đầu tư 300.000 tỷ đồng, trong đó các thành phố lớn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 30 – 40%, tỉ lệ xử lý đạt 40 – 45%.

Hiện nay, Bộ Xây dựng cũng đang bắt đầu triển khai các chính sách như sửa đổi các công trình thoát nước bên ngoài, các quy chuẩn hạ tầng kỹ thuật, đầu tư triển khai lĩnh vực thoát nước. Chủ trương đề xuất sửa đổi các Nghị định về hạ tầng kỹ thuật, cấp thoát nước, cây xanh, trình Chính phủ phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng. Đề xuất Luật Cấp thoát nước trình Quốc hội thông qua năm 2023 – 2024, Cục Hạ tầng kỹ thuật sẽ tham mưu. Bên cạnh đó, làm sao nâng cao được chính sách người dân sẽ phải trả tiền để đảm bảo trách nhiệm của người dân đối với bảo vệ môi trường.

Ông Nguyễn Văn Hoàn: hiện nay tỉnh Bắc Ninh đã, đang và sẽ có những nỗ lực đầu tư, nâng cấp hệ thống xử lý nước thải đô thị như thế nào? Cũng như có những chính sách, môi trường đầu tư ra sao để thu hút các doanh nghiệp, dự án tham gia vào công tác xử lý nước thải đô thị trên địa bàn?

Các chỉ tiêu xử lý nước thải đô thị được Bắc Ninh ưu tiên đưa vào nhiệm vụ phát triển đến năm 2025, 100% các chung cư ở các đô thị loại 4 đều phải có hệ thống xử lý nước thải, các công trình này đều là công trình ưu tiên về vốn, giải phóng mặt bằng. Bắc Ninh ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng để tỉnh sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đến năm 2030. Vì vậy, tỉnh ưu tiên đầu tư, hỗ trợ giải quyết thủ tục hành chính về đầu tư xây dựng…

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân: với tư cách là đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương, theo ông, làm sao để thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Hay nói cách khác, ông có kiến nghị gì về các chính sách, cũng như mong muốn các địa phương tạo môi trường tốt nhất để thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực này?

Đối với tỉnh Bình Dương đã có những chính sách thu hút đầu tư rất tốt, Đảng bộ tỉnh Bình Dương kêu gọi đầu tư rất sớm, có xử lý nước thải, rác thải nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ so với thực tế, tỉnh đã có chính sách xây dựng thành phố thông minh, đáng chú ý sẽ có dữ liệu thông tin đảm báo minh bạch về tình hình môi trường trên địa bàn, cần đầu tư nguồn lực thế nào?

Đặc biệt, chuyển đổi số phù hợp với chính sách, kêu gọi đầu tư đảm bảo heo hướng bền vững. Tại tỉnh Bình Dương, có hai chính sách, đó là bền vững về kỹ thuật và tài chính. Cần sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có những hướng dẫn về công nghệ, các Bộ Xây dựng, Bộ TN&MT có hướng dẫn cụ thể không chỉ với Bình Dương mà các địa phương khác để phát triển lâu dài và bền vững.

Nhà báo Nguyễn Văn Toàn – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống tặng hoa cho các khách mời tham dự tọa đàm.

Hệ thống thoát nước, xử lý nước thải tại nước ta hiện thiếu đồng bộ, chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa. Tỷ lệ nước thải được xử lý còn thấp, phần lớn lượng nước thải chưa qua xử lý đang thải trực tiếp ra môi trường hoặc qua xử lý nhưng không đạt yêu cầu, khiến tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, những hạn chế trong nguồn lực đầu tư, việc lựa chọn các công nghệ phù hợp, nhận thức của cộng đồng cũng như khung chính sách đang là thách thức lớn. Nếu không được quan tâm đúng mức đến xử lý ni – tơ, phốt – pho trong nguồn nước, bùn xả thải sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng xả thải, chất lượng môi trường. Đã đến lúc, việc quản lý và xử lý nước thải cần được quan tâm hơn ở mọi khâu quy hoạch, chính sách, công nghệ, quản lý và vận hành.

Để bảo vệ nguồn tài nguyên nước lâu dài và bền vững, thiết nghĩ cần tăng cường các biện pháp chế tài đối với các hành vi gây ô nhiễm nguồn nước. Cần xử lý an toàn, tái sử dụng nước thải đô thị cho các không gian xanh, tưới và làm sạch đô thị.

Ông Lương Ngọc Khánh thông tin thêm, hiện nay Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 15-2021-TT-BXD về quản lý công trình thu gom thoát nước. Quản lý nước thải yêu cầu các khu công nghiệp, khu đô thị mới cần sửa chữa, cải tạo cấp thoát nước, làm sao thu gom nước thải riêng và nước mưa riêng. Nếu đã là hệ thống thoát nước chung thì phải có phương án sớm xử lý tách biệt để đảm bảo. Cần khuyến nghị người dân duy trì bể xử lý tự hoại, đây là công nghệ tại chỗ để người dân khi phát thải nước thải sẽ giảm ô nhiễm. Nếu khu vực nào đã có hệ thống thoát nước riêng thì người dân sẽ không cần phải xây dựng bể tự hoại, việc này sẽ giúp giảm chi phí đầu tư xây dựng ban đầu cho người dân. Các địa phương cần ban hành lộ trình cụ thể để đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước cho người dân sớm nhất có thể, giảm phát thải gây ô nhiễm môi trường.

PV