Ngày 16/7, tại Bắc Kạn, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn công tác làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn để đánh giá tình hình, kết quả phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh thời gian qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, giải quyết một số kiến nghị của tỉnh.
Cùng tham dự cuộc làm việc có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn Hoàng Duy Chinh; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương.
Chiều cùng ngày, Thủ tướng đã kiểm tra Nhà máy luyện kim phi cốc của Công ty cổ phần vật tư và thiết bị toàn bộ – Matexim đang dừng hoạt động nhằm xem xét, chỉ đạo giải quyết, xử lý các vấn đề, khó khăn, vướng mắc, với mục tiêu đưa Nhà máy hoạt động trở lại.
Trước đó, trong ngày 15/7, Thủ tướng và đoàn công tác của Chính phủ đã dâng hương tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Khu di tích Nà Tu; kiểm tra công tác chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng tuyến Chợ Mới-Bắc Kạn; khảo sát hiện trường, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân đang thi công tuyến đường thành phố Bắc Kạn-Ba Bể kết nối sang Na Hang (Tuyên Quang); thăm Bệnh viện đa khoa Bắc Kạn; thăm, tặng quà Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Mông Thị Thi – có 2 con là liệt sĩ, ở xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông.
Các báo cáo, ý kiến tại cuộc làm việc thống nhất đánh giá, thời gian qua, với những nỗ lực rất lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, kinh tế – xã hội Bắc Kạn tiếp tục ổn định và phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tăng trưởng GRDP của tỉnh ước đạt 5,7% (xếp thứ 34/63 cả nước và 6/14 tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ). Chuyển dịch cơ cấu giữa các nhóm ngành kinh tế tiếp tục theo chiều hướng và định hướng chung.
Nông, lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, mở rộng liên kết và nâng cao chuỗi giá trị gắn với xây dựng nông thôn mới. Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm ước đạt 5,25%.
Công nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển, trong 6 tháng đầu năm tăng trưởng 10,8%. Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm tăng 5,14%. Thương mại phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng đều qua các năm. Du lịch phục hồi nhanh, 6 tháng đầu năm đón 571.000 lượt khách, gấp 2,5 lần so với cùng kỳ, đạt 74% kế hoạch năm; tổng doanh thu từ khách du lịch đạt 400 tỷ đồng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn gắn với thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Một số dự án giao thông kết nối vùng, phục vụ phát triển du lịch được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, như tuyến đường thành phố Bắc Kạn – hồ Ba Bể kết nối Na Hang (Tuyên Quang); cải tạo, nâng cấp các tuyến đường Quảng Khê – Khang Ninh, huyện Ba Bể; xây dựng hạ tầng giao thông quanh hồ Ba Bể để khai thác du lịch, chuẩn bị đầu tư tuyến Quốc lộ 3 mới từ Chợ Mới đến thành phố Bắc Kạn.
Các ý kiến cho rằng đây là những dự án rất quan trọng, khi hoàn thành sẽ kết nối các tuyến cao tốc Hà Nội-Thái Nguyên (70 km) và Thái Nguyên-Chợ Mới (40 km) để tạo nên trục giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối tỉnh Bắc Kạn với Thủ đô Hà Nội, Vùng đồng bằng sông Hồng và các cảng biển phía bắc; kết nối tuyến đường Bắc Kạn-hồ Ba Bể-Na Hang (Tuyên Quang) và hệ thống đường địa phương.
Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chuyển đổi số đạt nhiều kết quả; nhiều chỉ số tăng và được đánh giá cao. Chỉ số PCI năm 2022 đạt 65,15 điểm, tăng 13 bậc, đứng thứ 35/63 tỉnh, thành phố, nằm trong nhóm các tỉnh có chất lượng điều hành kinh tế khá của cả nước. Chỉ số PAPI năm 2022 tăng 4 bậc, xếp thứ 30/63 tỉnh, thành phố.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, lao động được quan tâm; triển khai hiệu quả công tác bảo đảm an sinh xã hội. Giảm nghèo được chú trọng, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm bình quân 2,07%/năm; triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo khó khăn. Duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, giữ vững phổ cập giáo dục xóa mù chữ.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng; năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên.
Kết luận cuộc làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết cá nhân ông và các đại biểu đều có nhiều cảm xúc và rất trăn trở với sự phát triển của Bắc Kạn. Cơ bản đồng tình với các báo cáo, ý kiến tại cuộc làm việc, Thủ tướng biểu dương nỗ lực và kết quả đạt được của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Bắc Kạn, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của cả nước.
Nhìn lại hơn 26 năm tái lập, Bắc Kạn đã có những đổi thay toàn diện. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực; tốc độ tăng trưởng được duy trì. Bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều thay đổi, kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định. Đời sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc được nâng lên.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả là cơ bản, Thủ tướng và các đại biểu cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của tỉnh. Đó là quy mô nền kinh tế nhỏ. Giao thông còn rất khó khăn. Thu ngân sách hạn chế. Tỉ lệ hộ nghèo còn cao. Sản xuất nông nghiệp manh mún, sản phẩm bán ra chưa có sức cạnh tranh. Tình trạng phá rừng vẫn còn diễn ra.
Tiến độ giải ngân kế hoạch đầu tư công và thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm. Công tác quy hoạch phải đẩy mạnh hơn.
Sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư còn hạn chế. Còn xảy ra vi phạm pháp luật về môi trường, khoáng sản, đất đai. Dân số phân tán, khó tập trung nên khó khăn cho phát triển giáo dục, y tế. Tiềm ẩn những yếu tố phức tạp về an ninh trật tự.
Thủ tướng và các đại biểu cũng dành nhiều thời gian phân tích về những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, dư địa phát triển của Bắc Kạn.
Tỉnh có vị trí địa lý trung tâm của vùng trung du và miền núi phía bắc, có diện tích tự nhiên hơn 4.800 km2; dân số hơn 320.000 người; mật độ dân số khoảng 67 người/km2; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 88%.
Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, thích hợp cho sản xuất nông lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và phục hồi rừng. Mạng lưới sông ngòi tương đối phong phú. Bắc Kạn là đầu nguồn của 5 con sông lớn của vùng Đông Bắc (sông Lô, sông Gâm, sông Kỳ Cùng, sông Bằng, sông Cầu).
Đất nông nghiệp chiếm 85%; đất phi nông nghiệp chiếm 4,35%; đất chưa sử dụng chiếm 10,65%. Đất đai tương đối màu mỡ, nhiều nơi tầng đất dày, có lượng mùn cao.
Diện tích rừng tự nhiên lớn, tỉ lệ che phủ rừng đạt 73,35%, cao nhất cả nước. Ngoài khả năng cung cấp gỗ, tre nứa, rừng ở Bắc Kạn còn nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm, có giá trị và được coi là một trung tâm bảo tồn nguồn gen thực vật của vùng Đông Bắc.
Tỉnh có tiềm năng, lợi thế phát triển một nền nông nghiệp sinh thái, tạo ra các sản phẩm tập trung phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu với khí hậu thuận lợi để phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc.
Tiềm năng phát triển du lịch, nhất là du lịch trải nghiệm, tham quan, khám phá, du lịch cộng đồng… với những phong tục tập quán phong phú, đa dạng của 7 dân tộc (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông, Hoa, Sán Chay), biểu trưng nhất là văn hóa Tày Nùng. Đặc biệt, tỉnh có hồ Ba Bể nổi tiếng – “viên ngọc xanh giữa đại ngàn Việt Bắc”, di tích quốc gia đặc biệt, hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và là 1 trong 20 hồ nước ngọt lớn nhất thế giới.
Tỉnh là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có nhiều địa danh nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp, được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Con người Bắc Kạn cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo chân thành, thân thiện, mộc mạc, hiếu khách.
“Bắc Kạn có nhiều khó khăn nhưng cũng không ít thuận lợi, có điều kiện để phát triển. Tôi lạc quan về sự phát triển của Bắc Kạn, nhưng điều đó phụ thuộc vào tư duy, cách tiếp cận, phương pháp luận giải quyết các vấn đề thực tiễn phù hợp với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh”, Thủ tướng chia sẻ và nhắc lại, năm 1951, tại tỉnh Bắc Kạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn những lời bất hủ: “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”.
Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy, đặc biệt là xác định 2 lĩnh vực đột phá gồm phát triển kinh tế rừng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở khai thác thế mạnh từ rừng gắn với bảo vệ rừng (với 3 định hướng gồm bán tín chỉ carbon, phát triển điện sinh khối, phát triển ngành công nghiệp các sản phẩm từ rừng theo hướng vừa là thực phẩm, vừa là mỹ phẩm, vừa là dược phẩm) và phát triển du lịch với lợi thế trung tâm của vùng và hồ Ba Bể; phối hợp với các bộ ngành để có cơ chế, chính sách phù hợp để huy động nguồn lực phát triển. Nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân.
Thủ tướng nhấn mạnh một số quan điểm, định hướng thời gian tới. Theo đó, tỉnh cần thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chủ động, tích cực triển khai Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ.
Cùng với đó, cần bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả.
Thủ tướng yêu cầu tỉnh Bắc Kạn phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên mạnh mẽ bằng sức mạnh nội sinh, đi lên từ bàn tay, khối óc, khung trời, mảnh đất của mình. Huy động hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 trở thành tỉnh có đầy đủ các nền tảng cơ bản của trình độ phát triển trung bình khá so với cả nước; đến năm 2050, có nền kinh tế năng động, mức phát triển khá so với các địa phương trong cả nước.
Nguồn lực và thời gian có hạn, trong khi yêu cầu thì phải kịp thời, phải nhanh, phải chất lượng, cho nên phải triển khai có trọng tâm, trọng điểm. Tận dụng triệt để những tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh của tỉnh tạo đột phá để phát triển (diện tích rừng tự nhiên lớn; tiềm năng phát triển nông nghiệp sinh thái…).
Là địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đầu tư cho phát triển hạ tầng, dịch vụ du lịch cần gắn với bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội và không ngừng cải thiện đời sống của đồng bào. Phát triển phải gắn với công bằng và tiến bộ xã hội.
Tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; có biện pháp kiểm tra, giám sát hiệu quả việc triển khai của từng cấp.
Chú trọng công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ, hành động, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trong sạch, tận tụy, vì Nhân dân phục vụ.
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa, rà soát việc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kế hoạch 5 năm, Chiến lược 10 năm, Nghị quyết 96/NQ-CP và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII.
Làm tốt công tác quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm và ưu tiên của tỉnh. Khẩn trương hoàn thành và trình phê duyệt quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng giao thông nội tỉnh, liên tỉnh và liên vùng. Đẩy mạnh phát triển hạ tầng chuyển đổi số. Thủ tướng nêu rõ, công tác quy hoạch phải chỉ ra và phát huy được các tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, hóa giải khó khăn, tồn tại, thách thức.
Tập trung phát triển ngành nông nghiệp hiệu quả, bền vững, làm trọng tâm thúc đẩy nền kinh tế. Khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên đất đai, khí hậu, nguồn nước sạch, đa dạng sinh học để sản xuất hàng hóa nông sản theo hướng tập trung, mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng xây dựng thương hiệu, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Mở rộng liên kết sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao chuỗi giá trị, tăng thu nhập, thúc đẩy phát triển nông thôn mới. Phát triển nông – lâm nghiệp gắn với hoạt động du lịch; phát triển các sản phẩm đặc sản bản địa, sản phẩm chủ lực, OCOP, sản phẩm hữu cơ.
Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện các đề án, nhiệm vụ khuyến công. Đôn đốc các dự án, nhà máy đi vào hoạt động, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật các cụm công nghiệp, sớm có quỹ đất sạch thu hút các dự án đầu tư; quan tâm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các cơ sở sản xuất công nghiệp. Tăng cường thu hút các dự án đầu tư; chú trọng tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công và dự án đầu tư ngoài ngân sách.
Đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp, HTX quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử. Tăng cường kết nối giao thương với khu vực phía bắc và Bắc Trung Bộ.
Tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, “chọn đúng, chọn trúng” để thúc đẩy phát triển du lịch, nhất là lợi thế hồ, sông, lấy hồ Ba Bể làm trung tâm, gắn với hồ Na Hang (Tuyên Quang) và các dòng sông. Xây dựng mô hình thí điểm phát triển “Điểm du lịch cộng đồng”. Tăng cường tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch gắn với phát huy các di sản văn hóa truyền thống của tỉnh. Tiếp tục tổ chức quảng bá xúc tiến du lịch; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ du lịch thông minh.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, chuyển đổi số. Cải cách thực chất các quy định về điều kiện kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Thường xuyên gặp gỡ, lắng nghe, giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ tối đa cho DN phát triển, làm giàu chính đáng; hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Coi trọng công tác đào tạo nhân lực, nhất là trong các lĩnh vực thế mạnh của tỉnh, phối hợp cùng các bộ ngành xây dựng, phát triển trường cao đẳng đa ngành, đa nghề, chú trọng hình thức cử tuyển với đồng bào dân tộc thiểu số. Gìn giữ và phát huy những di sản văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống, đặc trưng của các dân tộc và con người Bắc Kạn.
Giữ vững an ninh, quốc phòng; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; làm tốt công tác thông tin, truyền thông, nhất là về tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Thực hiện hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Cũng tại cuộc làm việc, lãnh đạo các bộ ngành đã phát biểu, trả lời và Thủ tướng đã cho ý kiến về các đề xuất, kiến nghị của tỉnh về 8 nhóm vấn đề trên tinh thần cơ bản đồng tình./.
Cong TTĐTCP