Chính phủ ban hành Nghị định 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19
Trong năm 2020, để hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân ứng phó với ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19 phù hợp với bối cảnh, điều kiện của đất nước, đồng thời tiếp tục thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước năm 2020 theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền và trình các cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất để kịp thời tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tái khởi động nền kinh tế.
Bước sang năm 2021, nhận định hoạt động của doanh nghiệp, người dân vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức, trong khi diễn biến dịch COVID-19 còn hết sức phức tạp, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính rà soát, nghiên cứu tiếp tục ban hành các giải pháp miễn, giảm thuế để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính và thẩm định của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã thông qua chủ trương để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp về miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19 (Tờ trình số 289/TTr-CP ngày 13/8/2021); chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội để hoàn thiện nội dung hồ sơ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 19/10/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ký Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.
Để Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 sớm đi vào cuộc sống, Chính phủ đã khẩn trương ban hành Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 hướng dẫn 04 nhóm giải pháp miễn, giảm thuế gồm: (i) Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức có doanh thu không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với năm 2019; (ii) miễn thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế khác) trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các địa bàn cấp huyện chịu tác động của dịch COVID-19 trong năm 2021; (iii) giảm mức thuế giá trị gia tăng đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ trong các ngành nghề; (iv) miễn tiền chậm nộp phát sinh trong các năm 2020, 2021 đối với các doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ trong năm 2020.
Nghị định có hiệu lực thi hành đồng thời với ngày có hiệu lực của Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 (ngày 19 tháng 10 năm 2021).
Việc ban hành Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2021 nhằm triển khai kịp thời các giải pháp được quy định tại Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 sẽ góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn do tác động của dịch bệnh COVID-19 để tiếp tục hoạt động, đóng góp vào kết quả khôi phục lại nền kinh tế của đất nước sau dịch bệnh và thực hiện an sinh xã hội.
Nghị định 93/2021/NĐ-CP về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 93/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
Nghị định quy định cụ thể về cá nhân tham gia vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện để khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố trong nước.
Cá nhân mở tài khoản riêng tại ngân hàng để tiếp nhận tiền đóng góp theo từng cuộc vận động
Về vận động, tiếp nhận nguồn đóng góp tự nguyện, Nghị định nêu rõ: Khi vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện để hỗ trợ thiên tai, dịch bệnh, sự cố, cá nhân có trách nhiệm thông báo trên các phương tiện thông tin truyền thông về mục đích, phạm vi, phương thức, hình thức vận động, tài khoản tiếp nhận (đối với tiền), địa điểm tiếp nhận (đối với hiện vật), thời gian cam kết phân phối và gửi bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú theo mẫu Thông báo ban hành kèm theo Nghị định này. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lưu trữ để theo dõi và cung cấp thông tin khi có yêu cầu của tổ chức, cá nhân đóng góp hoặc nhận hỗ trợ và cơ quan có thẩm quyền phục vụ công tác hướng dẫn, theo dõi, thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm.
Cá nhân mở tài khoản riêng tại ngân hàng thương mại theo từng cuộc vận động để tiếp nhận, quản lý toàn bộ tiền đóng góp tự nguyện, bố trí địa điểm phù hợp để tiếp nhận, quản lý, bảo quản hiện vật đóng góp tự nguyện trong thời gian tiếp nhận; có biên nhận các khoản đóng góp tự nguyện bằng tiền mặt, hiện vật tiếp nhận được khi tổ chức, cá nhân đóng góp yêu cầu. Cá nhân không được tiếp nhận thêm các khoản đóng góp tự nguyện sau khi kết thúc thời gian tiếp nhận đã cam kết và có trách nhiệm thông báo đến nơi mở tài khoản về việc dừng tiếp nhận các khoản đóng góp tự nguyện.
Phối hợp với UBND nơi tiếp nhận hỗ trợ để phân phối nguồn đóng góp tự nguyện
Căn cứ nguồn đóng góp tự nguyện của từng cuộc vận động, tiếp nhận, cá nhân có trách nhiệm thông báo với Ủy ban nhân dân nơi tiếp nhận hỗ trợ (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo phân cấp; trường hợp cần thiết, liên hệ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn cụ thể) chậm nhất để phối hợp xác định phạm vi, đối tượng, mức, thời gian hỗ trợ và thực hiện phân phối, sử dụng theo đúng cam kết tại khoản 1 Điều 17 và quy định tại Nghị định này, kể cả đối với những khoản đóng góp có điều kiện, địa chỉ cụ thể (nếu có).
Chậm nhất trong 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông báo, Ủy ban nhân dân nơi tiếp nhận hỗ trợ chủ trì, phối hợp với Ban Vận động cùng cấp (nếu có) hướng dẫn cá nhân về phạm vi, đối tượng, mức hỗ trợ, thời gian thực hiện phân phối nguồn đóng góp tự nguyện và tạo điều kiện, đảm bảo an toàn cho hoạt động hỗ trợ; cử lực lượng phối hợp tham gia phân phối nguồn đóng góp tự nguyện khi cần thiết hoặc theo đề nghị của cá nhân.
Khuyến khích cá nhân chi từ nguồn đóng góp tự nguyện theo các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định này (hỗ trợ cho người bị thương nặng, gia đình có người mất tích do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; chi phí mai táng cho gia đình có người chết do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ lương thực, thực phẩm, nước uống, thuốc chữa bệnh và nhu yếu phẩm thiết yếu khác cho người dân, hộ gia đình bị khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ hộ gia đình sửa chữa, xây dựng lại nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn toàn, sửa chữa nhà ở bị hư hỏng nặng; hộ phải di dời nhà ở khẩn cấp do nguy cơ từ thiên tai, sự cố để ổn định đời sống của người dân;…), trừ trường hợp thực hiện theo cam kết với tổ chức, cá nhân đóng góp.
Cá nhân vận động có trách nhiệm thống nhất với tổ chức, cá nhân đóng góp để có phương án phân phối, sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện còn dư hoặc chuyển cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp để thực hiện các chính sách an sinh xã hội bảo đảm phù hợp với mục tiêu đã cam kết với tổ chức, cá nhân đóng góp. Việc tiếp tục phân phối, sử dụng để khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố trong nước được thực hiện theo quy định tại Nghị định này.
Công khai kết quả tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện trên phương tiện truyền thông
Nghị định cũng quy định cụ thể về quản lý tài chính, công khai nguồn đóng góp tự nguyện. Cụ thể, chi phí cho hoạt động vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện do cá nhân đứng ra vận động tự chi trả. Trường hợp được các tổ chức, cá nhân đóng góp đồng ý thì cá nhân được chi từ nguồn đóng góp tự nguyện, nhưng phải tổng hợp và công khai khoản chi phí này.
Các khoản đóng góp tự nguyện do cá nhân vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, sự cố không tổng hợp vào ngân sách nhà nước. Trường hợp hỗ trợ sửa chữa, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, mua sắm trang thiết bị, các tổ chức, cơ quan, đơn vị tiếp nhận, phân phối, sử dụng thực hiện quản lý tài chính theo quy định; trường hợp hỗ trợ tài sản cụ thể là công trình hạ tầng thiết yếu, trang thiết bị từ nguồn đóng góp tự nguyện do cá nhân vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng để hỗ trợ các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập thì thực hiện tiếp nhận, xác định giá trị và quản lý tài sản theo quy định.
Các khoản đóng góp tự nguyện do cá nhân vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, sự cố phải đảm bảo tính công khai, minh bạch. Cá nhân có trách nhiệm mở sổ ghi chép đầy đủ thông tin về kết quả tiếp nhận, phân phối tiền, hiện vật đóng góp tự nguyện theo đối tượng, địa bàn được hỗ trợ, bao gồm những khoản tiếp nhận có điều kiện, địa chỉ cụ thể (nếu có), thực hiện công khai theo các nội dung quy định trên các phương tiện truyền thông và gửi kết quả bằng văn bản tới Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú để niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan trong 30 ngày. Thời điểm công khai thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này.
Cá nhân thực hiện vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu của các cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Nghị định 93/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 11/12/2021.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 trực tuyến các địa phương về công tác phòng, chống dịch COVID-19
Tại Thông báo số 285/TB-VPCP ngày 27/10/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ghi nhận, đánh giá cao, biểu dương sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở; sự nỗ lực vượt bậc của các lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch, Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống dịch COVID-19, các Tiểu ban thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia, Ban Chỉ đạo và Trung tâm chỉ huy phòng, chống dịch các cấp; sự hưởng ứng, chia sẻ và tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chia sẻ sự mất mát về người, sức khỏe, của cải của nhân dân, thiệt hại của các doanh nghiệp do dịch bệnh gây ra.
Đến nay, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc. Số ca lây nhiễm trong cộng đồng, số người tử vong giảm mạnh, tiến độ tiêm vaccine được đẩy nhanh. Tại các địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội, dịch bệnh cũng đã được kiểm soát. Cả nước đang từng bước triển khai thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua tiếp tục khẳng định các giải pháp phòng, chống dịch đã triển khai là đúng đắn, kịp thời, nhất là sự nỗ lực, phấn đấu, cố gắng của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc, đóng góp của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo đã kế thừa các biện pháp phù hợp của các đợt dịch trước, đồng thời bám sát thực tiễn, lắng nghe ý kiến chuyên gia, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài để điều chỉnh, đổi mới linh hoạt, phù hợp; đã thực hiện chuyển hướng có tính bước ngoặt trong phòng, chống dịch, đặc biệt là tổ chức huy động, điều động các lực lượng quân đội, công an, y tế và các lực lượng khác trong thời gian rất ngắn hỗ trợ các địa phương; chuyển hướng trong kết hợp hài hòa giữa lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương với phân cấp, phân quyền tổ chức thực hiện tại các địa phương; chuyển hướng trong cách tiếp cận toàn dân với quan điểm chỉ đạo lấy xã phường là pháo đài, người dân là chiến sĩ, đặc biệt thành lập một khối lượng lớn các trạm y tế lưu động trong một thời gian rất ngắn.
Tuy nhiên, công tác phòng, chống dịch trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá để có các giải pháp khắc phục triệt để như: Tổ chức thực hiện có nơi, có lúc còn lúng túng, bị động, bất ngờ với chủng vi rút Delta, nhất là trong giai đoạn đầu; thiếu nguồn lực, hệ thống y tế còn nhiều khó khăn cả về con người và cơ sở vật chất, trang thiết bị; y tế dự phòng tại các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức; không chủ động được vaccine, thuốc điều trị, sinh phẩm xét nghiệm… cho phòng, chống dịch do đều phải nhập khẩu dẫn đến tiến độ cung ứng không kịp thời, chịu nhiều rủi ro.
Một số kinh nghiệm
Một số kinh nghiệm bước đầu được đúc kết: Đoàn kết, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị, trong nhân dân, “tình đồng chí, nghĩa đồng bào” rất quan trọng trong những thời khắc khó khăn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, tập trung, nhất quán của Trung ương và linh hoạt, sáng tạo của cơ sở nhưng không vượt ra khỏi định hướng của Trung ương; kịp thời đề xuất Trung ương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn.
Đồng thời, phân cấp phân quyền phải đi đôi với bố trí nguồn lực, nâng cao năng lực cán bộ và tăng cường kiểm tra, giám sát; linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức thực hiện; không lơ là, chủ quan mất cảnh giác khi dịch chưa đến hoặc dịch đi qua nhưng cũng không mất bình tĩnh, thiếu tỉnh táo, thiếu sáng suốt khi có dịch hoặc khi dịch bùng phát.
Đồng lòng, hưởng ứng, vào cuộc của các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp; tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác của bạn bè, đối tác quốc tế. Việc triển khai các giải pháp mới cần bàn bạc kỹ lưỡng, thảo luận dân chủ, lắng nghe các ý kiến phản biện nhưng khi đã thống nhất, thực tế chứng minh có hiệu quả thì kiên trì, kiên định thực hiện các giải pháp đã đề ra.
3 trụ cột
Thủ tướng yêu cầu thực hiện tốt 3 trụ cột trong công tác phòng, chống dịch: 1- Cách ly nhanh nhất, hẹp nhất, nghiêm ngặt nhất có thể; có mục tiêu và lộ trình để có giải pháp phù hợp, hiệu quả để sớm kết thúc cách ly, phong tỏa; 2- Xét nghiệm thần tốc, nhanh hơn tốc độ lây lan của dịch, bảo đảm khoa học, hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm theo hướng dẫn của Bộ Y tế; 3- Điều trị tích cực từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, góp phần giảm chuyển nặng, giảm tử vong.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện hiệu quả phương châm 5K + vaccine + điều trị + công nghệ + đề cao ý thức người dân + các biện pháp cần thiết khác.
Kết quả phòng, chống dịch mới là bước đầu. Các cấp, các ngành cần tiếp tục đề cao cảnh giác, tuyệt đối không được lơ là, chủ quan với dịch bệnh, song cũng không hoang mang, mất bình tĩnh khi có dịch. Các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống dịch trong thời gian tới cần bảo đảm toàn diện, hiệu quả, kịp thời, bám sát thực tiễn để vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa khôi phục, phát triển kinh tế xã hội, tuyệt đối không để xảy ra ách tắc trong cung ứng, lưu thông hàng hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế: (i) Tiếp tục hoàn thiện Chiến lược tổng thể phòng, chống dịch bệnh; (ii) Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành chỉ đạo các địa phương tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch nhất là việc chuẩn bị cơ sở, năng lực điều trị.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội từng bước thích ứng an toàn, hiệu quả với dịch COVID-19 để vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phát triển kinh tế xã hội.
Thực hiện tốt công tác an sinh xã hội
Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, không để sót, lọt đối tượng; bảo đảm ổn định chính trị, an toàn trật tự xã hội. (i) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp Văn phòng Chính phủ, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đề xuất giải pháp, chính sách đối với trẻ mồ côi do COVID-19, bảo đảm căn cơ, chu đáo, hiệu quả. (ii) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, chỉ đạo việc cho học sinh đi học tại trường, bảo đảm an toàn.
Thủ tướng giao Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ Y tế bám sát tình hình, theo tinh thần vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không quá cầu toàn; lắng nghe ý kiến chuyên gia, người làm thực tiễn và kịp thời sửa đổi, bổ sung những vấn đề chưa phù hợp, bảo đảm sự lãnh đạo nhất quán, tập trung, xuyên suốt (tiêu chuẩn, quy trình, điều kiện…) của Trung ương và phát huy sự linh hoạt, sáng tạo của địa phương trong tổ chức thực hiện; bảo đảm mục tiêu kép nhưng không đặt thêm các quy định vượt quá khuôn khổ của Trung ương.
Các bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chủ động, linh hoạt, sáng tạo thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP, cùng với thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã hội. Các địa phương đẩy mạnh triển khai tiêm vaccine; tiếp tục truyền thông về việc vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất.
Yêu cầu Tiền Giang khẩn trương giải quyết kiến nghị của Cộng đồng doanh nghiệp FDI
Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang khẩn trương xem xét giải quyết các kiến nghị của Cộng đồng doanh nghiệp FDI tại tỉnh Tiền Giang. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021; Quyết định số 4800/QĐ-BYT ngày 12/10/2021 của Bộ Y tế, bảo đảm an toàn phòng, chống dịch và phục hồi, sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Trường hợp phát sinh khó khăn, vướng mắc, UBND tỉnh Tiền Giang cần khẩn trương xin ý kiến bộ chuyên ngành để tháo gỡ, giải quyết theo thẩm quyền.
Trước đó, ngày 19/10, Cộng đồng doanh nghiệp FDI tại tỉnh Tiền Giang có thư cầu cứu Thủ tướng Chính phủ tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp sớm được hoạt động trở lại.
Trong thư, Cộng đồng các doanh nghiệp FDI Tiền Giang bày tỏ và khẩn thiết đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét 5 vấn đề:
Thứ nhất, đề nghị không bắt buộc sản xuất theo mô hình “3 tại chỗ” hoặc “1 cung đường 2 địa điểm”.
Thứ hai, cho người lao động đang sinh sống tại vùng 1-3 đã được tiêm ít nhất 1 mũi vaccine đủ 14 ngày theo Nghị quyết 128 được sử dụng phương tiện giao thông cá nhân và xe đưa đón quay lại nhà máy sản xuất vào ngày 1/11/2021. Doanh nghiệp sẽ cung cấp danh sách và phương án phòng chống dịch trong cơ quan cũng như cam kết của doanh nghiệp và người lao động.
Thứ ba, đề nghị không hạn thời gian giới nghiêm (19h tối đến 5h sáng hôm sau) đối với người lao động trong quá trình đến nhà máy làm việc (theo công văn số 6249/UBND-KGVX, ngày 18/10/2021).
Thứ tư, đề nghị test nhanh kháng nguyên, không bắt buộc xét nghiệm Realtime PCR mẫu đơn cho người lao động trước ngày đầu tiên quay lại làm việc (theo nội dung cuộc họp 4 bên ngày 19/10/2021). Sau đó doanh nghiệp sẽ thực hiện xét nghiệm hàng tuần theo quy định của Bộ Y tế.
Thứ năm, đề nghị cho phép người lao động ngoài tỉnh đã tiêm đủ 2 liều vaccine quay lại Tiền Giang làm việc.
Cộng đồng các doanh nghiệp FDI đóng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đề nghị Thủ tướng Chính phủ “xem xét và có biện pháp can thiệp giúp đỡ doanh nghiệp dần khôi phục sản xuất để góp phần vào tiến trình phục hồi kinh tế, đồng thời giải quyết việc làm và ổn định đời sống kinh tế cho người lao động trên tinh thần Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ”.
Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại Hội nghị trực tuyến về tình hình triển khai các dự án thành phần trên tuyến cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2017-2020
Tại Thông báo 283/TB-VPCP ngày 27/10/2021 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại Hội nghị trực tuyến về tình hình triển khai các dự án thành phần trên tuyến cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2017-2020, Phó Thủ tướng đánh giá cao việc tổ chức thực hiện của các địa phương và các bộ, ngành trong 4 tháng vừa qua (kể từ Hội nghị ngày 30/6/2021 tại Ninh Bình) đã đạt được kết quả rất cụ thể, giải quyết tháo gỡ được nhiều vướng mắc về giá nguyên vật liệu; ban hành chính sách trong cấp phép khai thác kháng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho dự án (từ lúc thiếu hụt trên 22 triệu m3, đến nay chỉ thiếu trên 10 triệu m3); giải phóng mặt bằng cơ bản hoàn thành (chỉ còn lại khoảng 5 km trên toàn tuyến); giải ngân cho công tác xây lắp, tư vấn, quản lý dự án đạt trên 67% kế hoạch vốn năm 2021…
Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan tiếp tục phát huy với quyết tâm cao nhất để giải quyết các tồn tại, phấn đấu hoàn thành công trình trong thời gian sớm nhất.
Về cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, Phó Thủ tướng yêu cầu các địa phương khẩn trương thực hiện Nghị quyết số 133/NQ-CP ngày 19/10/2021 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021, tạo điều kiện nhanh nhất cho các nhà thầu có đủ nguồn vật liệu phục vụ thi công, bảo đảm tiến độ dự án.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải và Bộ Xây dựng rút kinh nghiệm từ dự án cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 nghiên cứu giải pháp để bảo đảm nguồn vật liệu xây dựng thông thường cho dự án đầu tư xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021-2025, trong đó lưu ý điều kiện khu vực ĐBSCL thiếu nguồn đất đắp và phải xử lý nền đất yếu.
Về công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư, Phó Thủ tướng yêu cầu các địa phương còn khối lượng chưa hoàn thành (Nghệ An, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đồng Nai,Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận, Tiền Giang) khẩn trương thực hiện bảo đảm tiến độ cam kết (ngày 15/11/2021).
Về di dời công trình hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, viễn thông), chính quyền các địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các Tập đoàn EVN, VNPT, Viettel để giải quyết kịp thời các vướng mắc còn lại (theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, còn 15.673 m đường ống nước, 37.303 m cáp viễn thông, 72 vị trí điện cao thế, 123 vị trí điện trung thế và 138 vị trí điện hạ thế).
Về thu xếp nguồn vốn tín dụng cho 3 dự án PPP, Bộ Giao thông vận tải đôn đốc các nhà đầu tư làm việc với nhiều ngân hàng thương mại để thu xếp vốn tín dụng và cân đối đủ các nguồn vốn để thực hiện dự án.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại đã cam kết cung cấp tín dụng với các nhà đầu tư, sớm thẩm định cho vay theo đúng quy định.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các ban quản lý dự án, các nhà thầu rà soát tiến độ tổng thể, tăng cường thiết bị, phương tiện, tăng ca, tập trung tối đa nhân lực… để bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình; lưu ý rà soát lại tiến độ cầu Mỹ Thuận 2 (đến nay khối lượng đã đạt 68,25% giá trị của 4/5 hợp đồng đang triển khai, tương đương 38,53% tổng giá trị 5 hợp đồng).
Bộ Giao thông vận tải tổ chức họp giao ban hàng tuần để kiểm soát tiến độ, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc.
Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại cuộc họp nghe Bộ Y tế báo cáo về Chiến lược tổng thể ứng phó hiệu quả với dịch bệnh COVID-19
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo 284/TB-VPCP ngày 27/10/2020 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại cuộc họp nghe Bộ Y tế báo cáo về Chiến lược tổng thể ứng phó hiệu quả với dịch bệnh COVID-19.
Cụ thể, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế tiếp thu ý kiến góp ý của các đại biểu dự họp để hoàn thiện Dự thảo Chiến lược, trong đó lưu ý làm rõ hơn: (i) Phát huy tính chủ động, khoa học trong công tác phòng, chống dịch từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt chuẩn bị sẵn sàng trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm, thuốc, vaccine, nguồn nhân lực và tập huấn, diễn tập sẵn sàng ứng phó trong tình huống dịch diễn biến ở cấp độ đặc biệt nghiêm trọng; (ii) Các chủ trương, giải pháp và tổ chức thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh theo phương châm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” phải được sự đồng thuận xã hội, được doanh nghiệp, người dân ủng hộ, tích cực thực hiện; (iii) Bám sát Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 đảm bảo đồng bộ giữa Chương trình và Chiến lược về thời gian, nội dung…; (iv) nhấn mạnh yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong phòng, chống dịch, đặc biệt kiểm soát đi lại của nhân dân phải bảo đảm thiết thực, an toàn, an ninh thông tin, dễ sử dụng.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế hoàn thiện Dự thảo Chiến lược; gửi xin ý kiến các Thành viên Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19; Tổ Công tác đặc biệt của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống dịch COVID-19; các bộ, ngành, địa phương (lần thứ 2); các chuyên gia, các nhà khoa học trước ngày 29/10/2021; phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ để bảo đảm thời gian trình Chiến lược tổng thể ứng phó hiệu quả với dịch bệnh COVID-19 đồng bộ với thời gian trình Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19./.