Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa
được Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định 1747/QĐ-TTg phê duyệt,
trong đó xác định phát triển du lịch toàn diện cả về phạm vi, quy mô, chất lượng
nhân lực và dịch vụ, đa dạng hóa chuỗi sản phẩm du lịch, kết cấu hạ tầng du lịch
hiện đại, đồng bộ ở tầm quốc tế.
Phương châm phát triển du lịch Đắk Lắk là "ba quốc gia, một điểm đến".
Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo hướng chất lượng cao và bền
vững, tạo động lực cho sự phát triển của các ngành liên quan dựa trên nền tảng
của kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số. Phát triển du lịch theo hướng
sinh thái, khai thác các giá trị văn hóa địa phương gắn với các di tích quốc gia.
Đắk Lắk ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Đối với ngành nông nghiệp, Đắk Lắk sẽ xây dựng chương trình nghiên
cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực ưu
tiên của tỉnh, triển khai thực hiện các dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị,
gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, các mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với
du lịch sinh thái.
Duy trì và mở rộng các làng nghề truyền thống hoa, cây cảnh, dệt thổ
cẩm, đan lát gắn với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững; phát triển và bảo vệ
thương hiệu các sản phẩm đặc trưng của tỉnh Đắk Lắk; phát triển chăn nuôi tập
trung, quy mô lớn theo hướng xanh, tuần hoàn.
Phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với quản lý, bảo vệ, khôi phục và phát
triển rừng; phát triển kinh tế rừng. Tăng nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng,
bán tín chỉ cacbon.
Phát triển công nghiệp chế biến sâu sản phẩm nông nghiệp
Phát triển công nghiệp theo mô hình kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh,
ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Trong đó, tập trung phát
triển công nghiệp chế biến sâu sản phẩm nông nghiệp, phát triển công nghiệp cơ
khí chế tạo phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến sâu nông lâm
thủy sản, công nghiệp sản xuất năng lượng tái tạo quy mô lớn. Đa dạng hóa các
ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp phụ trợ. Huy động các nguồn lực để
phát triển hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Phát triển thương mại theo hướng hiện đại, mở rộng hoạt động thương
mại, liên kết thị trường trong và ngoài nước; chú trọng đầu tư nâng cấp hệ thống
hạ tầng thương mại điện tử.
Phát triển dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, phát huy các
lợi thế so sánh, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững và mang lại thu
nhập cao cho người lao động. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ để đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ
phục vụ cho phát triển thương mại, trong đó tập trung vào dịch vụ logistics, xúc
tiến thương mại, dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo
hiểm, dịch vụ kinh tế ban đêm…
Thành phố Buôn Ma Thuột trở thành địa bàn trung tâm xuất, nhập khẩu
nông sản quy mô lớn (đặc biệt là cà phê) kết nối chặt chẽ với các cảng biển khu
vực ven biển miền Trung, Đông Nam Bộ; tham gia sâu vào chuỗi, mạng lưới
phân phối hàng hóa nông sản quốc tế.
Một trọng điểm – ba cực – ba hành lang – ba tiểu vùng
Theo quy hoạch vừa được phê duyệt, Đắk Lắk sẽ tổ chức các hoạt động
kinh tế – xã hội theo cấu trúc không gian "một trọng điểm – ba cực – ba hành
lang – ba tiểu vùng".
Một trọng điểm là thành phố Buôn Ma Thuột và phụ cận
Trọng điểm phát triển kinh tế của tỉnh Đắk Lắk, vùng Tây Nguyên, đô thị
đi đầu trong phát triển các ngành kinh tế mới, chuyển đổi số gắn với quá trình
đô thị hóa, hiện đại hóa theo hướng xanh, sinh thái, thông minh, bản sắc trên nền
tảng ứng dụng công nghệ số và quá trình chuyển đổi, tái cấu trúc các ngành kinh
tế đô thị hướng vào chất lượng, bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba cực phát triển
– Thị xã Buôn Hồ (cực tăng trưởng trung tâm tiểu vùng phía Bắc của tỉnh)
đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu đổi mới sáng tạo, thương mại, dịch vụ, du
lịch, sinh thái, văn hóa, phát triển nông nghiệp công nghệ cao;
– Thị xã Ea Kar (cực tăng trưởng phía Đông): Là trung tâm công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm gắn với vùng sản xuất
lúa, hoa màu, chăn nuôi gia súc… chất lượng cao. Có tiềm năng phát triển du
lịch, dịch vụ thương mại với lợi thế về giao thông;
– Thị trấn Ea Drăng và phụ cận, huyện Ea H'leo (cực tăng trưởng mới phía
Bắc): Đóng vai trò là đô thị cửa ngõ phía Bắc của tỉnh, kết nối với địa bàn tỉnh
Gia Lai thông qua hành lang Quốc lộ 14.
Ba hành lang động lực
– Hành lang kinh tế tổng hợp (Quốc lộ 14): Có vai trò thúc đẩy phát triển
liên kết, trung chuyển, giao thương kinh tế – xã hội của tỉnh Đắk Lắk. Phát triển
về nông nghiệp và công nghiệp, thương mại – đô thị – dịch vụ;
– Hành lang nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế dịch vụ và du lịch (Quốc
lộ 29): Là trục chính phát triển kinh tế – xã hội quan trọng phía Đông Bắc tỉnh;
– Hành lang phía Đông (Quốc lộ 26 và đường cao tốc Khánh Hoà – Buôn
Ma Thuột): Hình thành các chức năng dịch vụ du lịch và trung chuyển hàng hoá.
Ba tiểu vùng
– Tiểu vùng Trung tâm: Gồm thành phố Buôn Ma Thuột, các huyện Cư
M'gar, Krông Pắc, Cư Kuin, Krông Ana và Buôn Đôn là tiểu vùng động lực
đóng vai trò quan trọng nhất của tỉnh, vùng đô thị hóa tập trung của tỉnh với
thành phố Buôn Ma Thuột là trung tâm và các các khu vực phụ cận;
– Tiểu vùng phía Bắc: Gồm thị xã Buôn Hồ và các huyện: Ea Súp, Ea
H'leo, Krông Năng, Krông Búk là tiểu vùng kinh tế đóng vai trò quan trọng
trong liên kết phát triển giữa tỉnh Đắk Lắk với các tỉnh Bắc Tây Nguyên, đồng
thời là cửa ngõ quan trọng của tỉnh kết nối với các tỉnh vùng Duyên hải Miền
Trung gắn với hành lang kinh tế Bắc – Nam;
– Tiểu vùng phía Đông Nam: Gồm các huyện: Ea Kar, M'Đrắk, Krông
Bông, Lắk có vai trò quan trọng về văn hóa và môi trường, bảo tồn đa dạng sinh
học, đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch, nông lâm nghiệp của tỉnh.
Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 11%/năm
Đắk Lắk phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hàng năm thời kỳ
2021 – 2030 là 11%/năm.
+ Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 20,6%, khu vực
công nghiệp – xây dựng chiếm 39,5%, khu vực dịch vụ chiếm 35%, thuế sản
phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,9%.
+ Tỷ trọng kinh tế số đạt 20%.
+ GRDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt 131 triệu đồng
+ Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 47%.
+ Giảm tỷ lệ hộ nghèo (đa chiều) hàng năm 1,5% – 2%; hộ nghèo đồng bào dân
tộc thiểu số 3% – 4%/năm trong cả thời kỳ 2021 – 2030.
+ Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,81%.
+ Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn 2% – 3%.
+ Nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25% – 30%.
+ 85% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Cong TTĐTCP